Bí thư Đảng ủy nhất thiết phải là người có uy tín cao nhất để kiêm Chủ tịch HĐT
Tại "Hội nghị tự chủ đại học 2022” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội tổ chức vào ngày 04/8. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn đã trình bày Báo cáo về kết quả thực hiện tự chủ đại học.
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn cho biết, việc thực hiện tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học đã được một số kết quả đáng khích lệ, mang lại nhiều chuyển biến tích cực cả về nhận thức lẫn công tác tổ chức thực hiện, đúng với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn báo cáo về kết quả thực hiện tự chủ đại học. (Ảnh: Doãn Nhàn) |
Cơ quan quản lý nhà nước đã thể hiện sự quyết tâm trong đẩy mạnh tự chủ, đã tiến hành xây dựng hệ thống văn bản triển khai tự chủ theo tinh thần của Luật số 34, đã xây dựng được một số mô hình tự chủ hiệu quả, tạo tiền đề để triển khai sâu, rộng trên toàn hệ thống.
Các cơ sở giáo dục đại học tự chủ đã chủ động rà soát, kiện toàn lại tổ chức bộ máy và nhân sự theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Vai trò của thiết chế Hội đồng trường được cụ thể và nâng cao trong tổ chức quản trị hoạt động của hầu hết các cơ sở giáo dục đại học.
Để đạt hiệu quả hơn cơ sở giáo dục đại học đã chủ động tăng số lượng giảng viên và giảm đội ngũ chuyên viên, phục vụ; đồng thời, thu hút đội ngũ giảng viên, chuyên gia giỏi tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học với mục tiêu góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng quy mô, nâng cao thu nhập cho giảng viên.
Tự chủ đại học cũng giúp các cơ sở giáo dục đại học đẩy mạnh quá trình xã hội hóa giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng đầy đủ hơn điều kiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng; liên kết với thị trường lao động, đào tạo đi vào thực chất, có định hướng rõ về tầm nhìn, sứ mạng là cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu hay định hướng ứng dụng; đồng thời, tăng cường kiểm soát các khoản chi, gia tăng tiết kiệm, bảo đảm tính hiệu quả trong quản lý và sử dụng nguồn lực.
Trách nhiệm giải trình, một nội dung quan trọng của tự chủ đại học, tại các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật số 34 đã đẩy mạnh việc quy định các cơ sở giáo dục đại học phải thực hiện công khai, minh bạch trên trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học để các bên liên quan giám sát; đồng thời, hệ thống cơ sở dữ liệu giáo dục đại học để cơ quan quản lý nhà nước giám sát cũng đang được triển khai; một quy chế riêng về thực hiện trách nhiệm giải trình thay thế cho Thông tư số 36/2017/TT-BGDĐT cũng đang được triển khai để đồng bộ với hệ thống cơ sở dữ liệu.
Sửa đổi, hoàn thiện Luật số 34, làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng trường
Tại Hội nghị, lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kiến nghị một số vấn đề liên quan đến tự chủ đại học.
Bộ Giáo dục và Đào tạo kiến nghị Quốc hội sửa đổi các luật liên quan đến hoạt động tự chủ của cơ sở giáo dục đại học.
Cụ thể, sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước theo hướng cho phép các đơn vị sự nghiệp giáo dục đào tạo được chuyển số dư kinh phí, chế độ chính sách của người học sang năm sau để tiếp tục thực hiện đúng mục tiêu hỗ trợ cho người học.
Sửa đổi Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Đất đai: Quy định tỷ lệ về việc sử dụng tài sản công để: Phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ; phục vụ hoạt động phụ trợ, hỗ trợ trực tiếp cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và một phần cho hoạt động ngoài ngành.
Sửa đổi Luật Đất đai, cho phép thẩm quyền của Bộ chủ quản trong việc phê duyệt đối với các Đề án sử dụng đất để cho thuê, kinh doanh hoặc liên doanh liên kết trên nguyên tắc bảo toàn tài sản, phát huy có hiệu quả nguồn lực đất đai trong các cơ sở giáo dục đào tạo.
Sửa đổi, hoàn thiện Luật số 34, trong đó làm rõ hơn, cụ thể hơn về quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng trường, Chủ tịch Hội đồng trường, người đứng đầu của các cơ sở giáo dục đại học công lập; thẩm quyền về công tác cán bộ, quản lý cán bộ của cơ quan quản lý trực tiếp các cơ sở giáo dục đại học; quy định về Hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục đại học trực thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; hoàn thiện mô hình đại học có trường thành viên, có các đơn vị trực thuộc, theo đó đảm bảo quyền tự chủ của các trường thành viên trong các đại học, nhưng đồng thời đảm bảo tính thống nhất và sự điều hành của các đại học; làm rõ về phương thức cung cấp dịch vụ đào tạo từ xa, trực tuyến trong bối cảnh chuyển đổi số và toàn cầu hóa.
Có nghị quyết về lộ trình nâng tỷ trọng ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đại học tính trên GDP đạt mức trung bình của các nước trong khu vực. Đầu tư tập trung cho một số cơ sở giáo dục đại học mạnh, nhất là trong một số ngành, lĩnh vực ưu tiên để hình thành một số cơ sở giáo dục đại học đẳng cấp quốc tế, tiên phong, có vai trò, nhiệm vụ dẫn dắt hệ thống, tạo động lực dẫn dắt phát triển khoa học công nghệ và phát triển kinh tế - xã hội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quán triệt và tiếp tục định hướng các chính sách liên quan, chỉ đạo tiếp tục rà soát một số luật và văn bản hướng dẫn (thuộc chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành khác, đặc biệt là Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính) liên quan đến tự chủ đại học, để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất và hiệu quả trong việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh tự chủ đại học của Đảng và Nhà nước.
Chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích đầu tư và tài trợ cho giáo dục đại học, xã hội hoá giáo dục đại học, bao gồm cả thực hiện cơ chế hợp tác công tư, nhất là chính sách ưu đãi thuế, sử dụng đất; tăng quyền chủ động cho các cơ sở giáo dục đại học công lập trong sử dụng nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước cho đầu tư cơ sở vật chất và tăng cường năng lực hoạt động giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao tri thức.
Chỉ đạo các bộ, ngành cần phân định rõ mối quan hệ, sự phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn giữa cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền với cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là vấn đề liên quan đến công tác tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính, tài sản trên tinh thần “tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học” (khoản 1 Điều 32 Luật Giáo dục đại học).
Tăng cường, đẩy mạnh phân cấp, trách nhiệm cho các Bộ, ngành, địa phương trong công tác quản lý và sử dụng tài sản công. Sửa đổi quy định để phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương chủ động xây dựng, phê duyệt tiêu chuẩn, định mức về diện tích cơ sở sự nghiệp chuyên dùng.
Đối với bộ, ngành và cơ quan quản lý trực tiếp các cơ sở giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo kiến nghị các cơ quan quản lý trực tiếp các cơ sở giáo dục đại học chỉ đạo, quản lý đảm bảo tính thống nhất trên phạm vi toàn quốc đối với cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ và không thực hiện tự chủ; thực hiện phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn và tôn trọng quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học trực thuộc.
Tăng cường đầu tư cho các cơ sở giáo dục đại học (kể cả các cơ sở đã tự chủ tài chính hoàn toàn và cơ sở chưa tự chủ tài chính) song song với đổi mới chính sách phân bổ ngân sách nhà nước cho các cơ sở giáo dục đại học dựa trên các tiêu chí về lĩnh vực ưu tiên, chất lượng, hiệu quả hoạt động và khả năng huy động nguồn lực từ xã hội của các cơ sở giáo dục đại học; lấy đầu tư công để thúc đẩy và dẫn dắt đầu tư từ khu vực tư nhân.
Xây dựng và trình Chính phủ ban hành cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của lĩnh vực phụ trách. Chuyển phần lớn kinh phí chi thường xuyên sang chi đầu tư và chi đặt hàng, giao nhiệm vụ theo gói, thực hiện cơ chế hợp đồng cam kết chỉ số đầu ra; tăng mức chi và mở rộng đối tượng người học được hưởng hỗ trợ qua cơ chế học bổng và tín dụng ưu đãi theo đối tượng, ngành học và cơ sở đào tạo cần ưu tiên.
Có cơ chế để Bộ Giáo dục và Đào tạo tham gia vào việc phân bổ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục kể cả chi thường xuyên và đầu tư ở Trung ương, địa phương để đảm bảo tỷ lệ chi 20% cho giáo dục. Ưu tiên nguồn lực để đầu tư tập trung cho một số cơ sở giáo dục đại học, nhất là các trường đại học sư phạm.
Hướng dẫn các cơ sở giáo dục đại học thống nhất vai trò, chức năng và mối quan hệ giữa Đảng ủy - Hội đồng trường - Ban giám hiệu - Cơ quan quản lý nhà nước. Trong đó, khẳng định nguyên tắc lãnh đạo toàn diện của Đảng, như Nghị quyết 19/NQ-TW đã chỉ đạo, Bí thư Đảng ủy nhất thiết phải là người có uy tín cao nhất trong trường để xứng đáng kiêm chức Chủ tịch Hội đồng trường. Trong vai trò đó Chủ tịch Hội đồng trường có trách nhiệm quán triệt và thuyết phục các thành viên Hội đồng trường để đưa những nghị quyết quan trọng của Đảng ủy sớm đi vào cuộc sống thông qua sự chuyển hóa thành các Nghị quyết của Hội đồng trường.
Đối với các cơ sở giáo dục đại học, cần đẩy mạnh hoạt động tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình; thực hiện bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, giảng viên và người lao động trong toàn trường về các chủ trương, chính sách tự chủ đại học của Đảng và Nhà nước; thực hiện tốt công tác bảo đảm chất lượng, nâng cao chất lượng đào tạo; có chính sách chăm lo, bảo đảm quyền lợi của người dạy, người học.
Nâng cao năng lực quản trị nhà trường: Rà soát, hoàn thiện chiến lược phát triển và hệ thống quản trị chiến lược, hệ thống văn bản, quy chế và quy định quản trị nội bộ; làm rõ và sâu sắc hơn vai trò, vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của hội đồng trường/hội đồng đại học, chủ tịch hội đồng trường/chủ tịch hội đồng đại học trong hệ thống quản trị nhà trường.
Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, kiện toàn các vị trí lãnh đạo chủ chốt theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Quy hoạch, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; tăng cường phân cấp, phân quyền, phân trách nhiệm tới từng đơn vị và cá nhân gắn với đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, xây dựng môi trường đại học dân chủ, năng động, sáng tạo.
Xây dựng hệ thống quản trị, quản lý nhà trường minh bạch, hiệu quả trên môi trường số; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số.
Tiếp tục triển khai tốt các chương trình, đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đồng thời khai thác, huy động các nguồn lực khác để đào tạo, bồi dưỡng, tăng quy mô và chất lượng đội ngũ giảng viên.
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với doanh nghiệp; hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ.
Phát triển các chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh; đẩy mạnh hoạt động trao đổi giảng viên, sinh viên; thu hút giảng viên, sinh viên quốc tế tới học tập và nghiên cứu khoa học tại Việt Nam.
Nguồn: giaoduc.net.vn